Sau Thế Chiến II, Nhật Bản bắt đầu thực sự coi trọng ô tô. Tỷ lệ sở hữu xe của quốc gia Đông Á này trở nên tăng nhanh vào những năm 1950, và các nhà sản xuất ô tô địa phương cũng bắt đầu phát triển ngày một lớn. Thế nhưng phần còn lại của thế giới vẫn không quan tâm đến ô tô Nhật Bản ở thời điểm này vì chúng bị coi là bắt chước và nhàm chán. Toyota là thương hiệu đã quyết tâm bước lên và nỗ lực thay đổi nhận thức đó với mẫu 2000GT. Hợp tác với Yamaha, Toyota đã nhận ra rằng họ cần một chiếc xe thể thao có thể cạnh tranh với các mẫu xe châu Âu thời bấy giờ, bao gồm cả Jaguar E-Type.
Mẫu Toyota 2000GT 1967 đã gây ấn tượng mạnh, thu hút nhiều đánh giá so sánh nó với huyền thoại Porsche 911. Đây là một mẫu xe sản xuất giới hạn với chỉ 351 chiếc được chế tạo trong lịch sử, nhưng nó đã góp công đưa Toyota nói riêng, và rộng hơn là các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản lên bản đồ thế giới. Các công ty Nhật Bản đã biết nắm thời cơ tận dụng sự tôn trọng mới có từ những năm 1970, và trong những năm 1980, những mẫu xe thể thao đỉnh cao từ xứ hoa anh đào đã lần lượt ra đời.
Tuy nhiên, thập niên 90’ mới thật sự là lúc những chiếc xe hiệu suất nguồn gốc Nhật Bản gây bão trên thế giới, vì vậy đây sẽ là nơi chúng ta bắt đầu danh sách, và chỉ chọn lọc một mẫu xe từ mỗi nhà sản xuất mà thôi.
Honda NSX 1990
Khi Honda quyết định sẽ đối đầu với các nhà sản xuất siêu xe châu Âu, họ đã làm như vậy theo cách của riêng mình. Ý tưởng của nhà sản xuất xe Nhật Bản là tạo ra một sản phẩm có thể cạnh tranh với các mẫu Ferrari chạy bằng động cơ V8 ở thời đó, nhưng phải có giá phải chăng hơn nhiều. Kết quả, Honda NSX là mẫu xe đầu tiên được đưa vào sản xuất với thân xe hoàn toàn bằng nhôm và trang bị động cơ V6 VTEC dung tích 3.0 lít cũng hoàn toàn bằng nhôm, sản sinh công suất 270 mã lực. Mẫu xe này không những tạo nên chấn động ngay lập tức mà còn ảnh hưởng về lâu dài.
Vào thời điểm đó, tạp chí MotorTrend nhận xét NSX là “tốt hơn nhiều so với bất kỳ chiếc Ferrari hay Lamborghini nào từng được chế tạo.” Sau đó, nhà thiết kế Gordon Murray của McLaren đã mô tả NSX là một sản phẩm “vĩ đại”, và là nguồn cảm hứng cho McLaren F1 sau khi ông tiếp cận Honda. Ông đã cố gắng thuyết phục công ty rằng NSX có thể xử lý công suất mạnh hơn, nhưng Honda không thấy cần thiết.
Mazda RX-7 (FD) 1991
Hiện tại, Mazda không cung cấp một mẫu xe nào thực sự mạnh mẽ trên thị trường, nhưng lịch sử của nhà sản xuất ô tô này dày đặc với những chiếc xe đua và xe thể thao hiệu suất. Cái tên quan trọng nhất về mặt văn hóa trong số đó là RX-7 trang bị động cơ xoay, và đặc biệt nhất là thế hệ FD có thêm bộ tăng áp. Kết hợp với động cơ dung tích 1.3 lít, sản sinh 252 mã lực và 276 mã lực về sau, là khung gầm cân bằng và linh hoạt, cũng như thiết kế thẩm mỹ mượt mà vượt thời gian.
Cho đến ngày nay, khung gầm của RX-7 FD vẫn được coi là một trong những bộ khung tốt nhất từng có từ thiết kế đến sản xuất vì trọng tâm thấp và cân bằng trọng lượng 50/50 nhờ sử dụng động cơ nhỏ, nhẹ được gắn ở cấu hình phía trước – giữa.
Toyota Supra A80 1993
Vài năm sau khi mẫu Nissan GT-R đầu tiên ra mắt, mẫu Toyota Supra đầu tiên đã được tung ra thị trường. Ở những thế hệ đầu tiên, nó được chế tạo dựa trên chiếc Toyota Celica kéo dài để chứa động cơ 6 xi-lanh thẳng hàng thay vì 4 xi-lanh. Nhưng nó đã tiến hóa thành một cỗ máy ưu việt hơn với thế hệ thứ tư A80, thế hệ có trang bị sẵn một động cơ tăng áp kép Toyota 2JZ-GTE. Động cơ đó, nổi tiếng nhờ sự bền bỉ và khả năng độ vô hạn, mới chỉ là một phần của công thức.
Sự nổi tiếng của Mark IV đã tăng vọt sau khi nó ngừng sản xuất vì bộ phim “Fast and Furious” đầu tiên, nhưng nó được xuất hiện trong phim là có lý do. Khung gầm xe đã đạt thành công trong các cuộc đua đường trường, và hiệu suất của nó là rất tuyệt vời. Tạp chí Road & Track từng ghi lại khoảng cách dừng của nó từ tốc độ 112 km/h là chỉ 45,4 mét vào năm 1997. Con số này đã bất bại cho đến năm 2004 khi Porsche Carrera GT đạt thành tích tốt hơn chỉ 1,2 mét.
Subaru Impreza 22B STi 1998
Danh sách này sẽ không hoàn chỉnh nếu thiếu Subaru Impreza thế hệ 22B. Nó được chế tạo để kỷ niệm tay đua Colin McRae giành được danh hiệu thứ ba liên tiếp cho thương hiệu ở World Rally Championship của FIA. Nó có trang bị một phiên bản chế tạo thủ công và nâng cấp của động cơ boxer 4 xi-lanh trong Imprezas tiêu chuẩn – nâng dung tích lên 2,2 lít – cũng như một bộ tăng áp lớn hơn. Công suất 276 mã lực được kết hợp bởi các thành phần hệ thống treo Bilstein, phanh mở rộng, ly hợp đĩa đôi, mô-đun điều khiển khóa vi sai, bánh xe và lốp lớn hơn.
Ngoài động cơ công suất 276 mã lực, Impreza 22B STi còn trang bị nhiều phụ tùng hiệu suất cao khác gồm hệ thống treo Bilstein, phanh mở rộng, bộ ly hợp đĩa đôi, mô-đun điều khiển khóa vi sai, la-zăng và lốp lớn hơn. Nó có thể gia tốc từ 0-96 km/h chỉ trong 3,9 giây, và tung hoành trên cả đường phố công cộng lẫn đường đua. Chỉ có 424 chiếc 22B STi được chế tạo, và nếu bạn muốn có một chiếc cho riêng mình, bạn sẽ cần một khối gia tài nhỏ.
Nissan Skyline GT-R (R34) 1999
Cái tên Skyline GT-R đã xuất hiện lần đầu vào năm 1969, sau đó lại biến mất vào năm 1973. Nó được hồi sinh vào năm 1989, và thế hệ R32 được chế tạo để thống trị giải đua Group A. Đó là chiếc xe đua R32 được đặt biệt danh “Godzilla,” nhưng chính R34 GT-R thế hệ thứ 5 sản xuất từ năm 1999 đến năm 2002 mới ghi dấu tên GT-R vào lịch sử thế giới ô tô.
Động cơ tăng áp kép 6 xi-lanh thẳng hàng dung tích 2.6 lít của nó không chỉ nhanh mà còn được lắp ráp để tồn tại lâu dài. Ở cấu hình NISMO Z-Tune, nó được nâng lên dung tích 2.8 lít, sản sinh công suất 493 mã lực và 540 Nm mô-men xoắn cực đại. Sức mạnh đó được truyền tới cả 4 bánh thông qua một hệ dẫn động AWD công nghệ cao, trong khi các mẫu V-Spec lại đi kèm với một hệ dẫn động nâng cấp bao gồm bộ hạn chế trượt vi sai Active ở phía sau thay vì phiên bản cơ khí tiêu chuẩn.
Mitsubishi Lancer Evo VIII 2003
Khi Mitsubishi đang ở trên đỉnh cao cuộc chơi, họ đã có một phiên bản phù hợp đi đường phố của chiếc xe đua đường trường dựa trên sedan Lancer. Cùng khuôn mẫu với Subaru Impreza WRX, Evo là một mẫu xe hiệu suất cao, trang bị bộ tăng áp, dẫn động AWD và mang giá tiền phải chăng. Cho đến thế hệ thứ 8, Evo vẫn chỉ là mẫu xe dành riêng cho thị trường Nhật Bản với số lượng hạn chế đến được thế giới bên ngoài thông qua “chợ đen.”
Tuy nhiên, vào năm 2003, nó đã chính thức đến được đất Mỹ, hoàn chỉnh với bộ giảm xóc Bilstein, phanh Brembo, và công suất khoảng 270 mã lực. Đáng tiếc, thế hệ thứ 10 là thế hệ cuối cùng và kết thúc sản xuất vào tháng 5 năm 2016.
Lexus LFA 2011
Trong năm 2011, Lexus đã cho ra đời một kiệt tác về siêu xe. Nhà sản xuất Nhật Bản muốn tạo ra một biểu tượng và đã làm điều đó bằng một khung gầm liền khối bằng chất liệu polymer gia cố sợi carbon, trang bị động cơ V10 dung tích 4.8 lít đặt ở phía trước – giữa được phát triển cùng Yamaha. Nó có công suất 553 mã lực ở tua máy 8.700 vòng/phút với tiếng kêu chói tai, và Lexus tuyên bố nó có thể chuyển từ trạng thái idle sang vạch đỏ chỉ trong 0,6 giây. Tuy nhiên, Lexus chỉ sản xuất LFA trong đúng một năm, và bất ngờ công bố “khai tử” mẫu xe cực tốc độ này.
Acura NSX 2016
Trong khi Honda tạo ra mẫu NSX đầu tiên tại Nhật Bản, Acura đã thiết kế và chế tạo thế hệ tiếp theo tại Mỹ. Acura đã chế tạo dựa trên bản chất thử nghiệm của NSX nguyên bản và lắp cho nó một hệ truyền động hybrid sản sinh 573 mã lực và 645 Nm mô-men xoắn cực đại, cho phép gia tốc 0-96 km/h trong 2,7 giây. Hệ dẫn động SH-AWD của Acura giúp kìm hãm sức mạnh đó và đảm bảo nó được truyền tới bánh xe đúng lúc đúng chỗ. Acura NSX thế hệ hiện tại là một mẫu xe hiệu suất cao tuyệt vời, mang công nghệ tương tự như Porsche 918 nhưng giá mềm hơn, và vẫn đang được sản xuất.