Chiếc xe máy siêu nhỏ này được phát triển dựa trên bài học thực tế mà quân đội Anh rút ra từ cuộc xâm lăng của Đức Quốc Xã lên đảo Crete, Hy Lạp vào tháng 5 năm 1941. Đức Quốc Xã đã đổ bộ bằng đường không lên đảo Crete, thả lính dù và cả những chiếc xe máy. Vậy là Station IX hay Cục nghiên cứu dịch vụ liên ngành tại Welwyn, Hertfordshire, VQ Anh đã yêu cầu thiết kế một chiếc xe máy đủ nhỏ, đủ nhẹ nhưng chắc chắn và có thể gắn thêm trang thiết bị. Chiếc xe ban đầu được biên chế cho SOE – một tổ chức mật của Anh được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ như phá hoại ngầm, gián điệp và do thám ở châu Âu nhằm chống lại phe Trục cũng như hỗ trợ các phong trào kháng chiến tại địa phương.
Nhiệm vụ được giao cho trung tá John Dolphin – sĩ quan chỉ huy Station IX. Ông đã dùng một chiếc thùng tiếp tế thả từ trên không tiêu chuẩn lúc đó để phác thảo ra chiếc xe với thiết kế ghi đông và yên có thể gập gọp. Thiết kế của John Dolphin sau đó được chuyển đến Excelsior Motor Company ở Birmingham để chế tạo nguyên mẫu đầu tiên. Excelsior Motor là một công ty sản xuất xe máy có truyền thống lâu đời và là nhà sản xuất xe máy đầu tiên của nước Anh với dây chuyền sản xuất xe máy thương mại có từ năm 1896. Tuy nhiên, Excelsior lại không quá nổi danh và trong thế chiến, hãng này thường được chọn để trao các hợp đồng chế tạo kỹ thuật thay vì sản xuất xe máy.
Chiếc xe được đặt tên là Welbike dựa theo Welwyn – nơi nó được thiết kế. Khung xe được làm dạng ống kép, tay lái gấp và yên dạng ống lồng như yên xe đạp. Bánh xe cỡ 10″, trọng lượng khô chỉ 32 kg, không có đèn, không có hệ thống giảm xóc, không chắn bùn và chỉ có phanh ở bánh sau. Khi gập gọn lại, chiếc xe đủ nhẹ và nhỏ để có thể được đặt vừa trong can CLE – thùng tiếp tế thả từ máy bay tiêu chuẩn có hình trụ gần tròn, kích thước 130 x 30 x 38 cm.
Nguyên mẫu ban đầu được trang bị động cơ Villiers 93 cc, xy-lanh đơn 2 thì, chạy xăng và hộp số chỉ có 1 cấp. Thùng xăng của chiếc xe có thể tích chỉ 6,5 pint ~ 3,694 lít và phải được nén áp suất mới xài được vì vị trí thùng xăng đặt quá thấp từ đó khiến nhiên liệu không thể tự động được nạp vào động cơ bằng lực hút trái đất. Chiếc xe khởi động bằng bánh đà magneto tức là người dùng phải đẩy nổ.
Năm 1942, nguyên mẫu đầu tiên của Welbike được thử nghiệm tại Scotland nơi nó được thả dù từ máy bay xuống và chạy thử trên mặt đất. Excelsior sau đó được trao gói thầu sản xuất hàng loạt chiếc xe này. Qua thử nghiệm, động cơ Villiers cho thấy nó quá yếu để có thể chở một người lính với đầy đủ trang thiết bị trên người. Thế nên những chiếc Welbike được sản xuất dùng động cơ 98 cc do chính Excelsior phát triển. Với nhiên liệu đầy thùng, chiếc xe có thể chạy được 140 km ở vận tốc 48 km/h.
Trong video trên, người lính dù thực hiện quá trình dỡ chiếc Welbike ra khỏi can CLE, bật ghi đông lên xoay và khóa lại, kéo yên lên và bật gá để chân. Toàn bộ quá trình này có thể được thực hiện trong vòng 11 giây. Khi được thả từ máy bay, những chiếc xe Welbike sẽ nằm trong can CLE được sơn màu xanh rêu, bên ngoài có dòng chữ MOTOR CYCLE sơn trắng và thả xuống bằng dù có màu vàng rất dễ nhận biết.
Dù biên chế ban đầu cho SOE nhưng đơn vị chuyên thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt này lại không sử dụng nhiều chiếc xe mini này. Welbike được trang bị cho các sư đoàn lính dù số 1 và số 6 của quân đội Anh và về sau là nhiều lực lượng mặt đất như biệt kích và thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh. Welbike còn được trang bị cho lực lượng của các quốc gia khác, chẳng hạn như hình trên là những người lính thuộc lữ đoàn lính dù Ba Lan, họ đang xếp hàng chờ đẩy nổ chiếc Welbike theo lượt.
Theo ước tính có gần 4000 chiếc Welbike được sản xuất trong giai đoạn 1942 – 1943. Thế nhưng việc sử dụng thực tế chiếc Welbike trên chiến trường không nhiều bởi nó có nhiều hạn chế. Chiếc xe nhỏ trông tiện lợi nhưng bánh xe 10″ của nó lại gặp khó khăn khi di chuyển tại các địa hình gồ ghề, bánh xe dễ bị bám bùn và kẹt.
Trên chiến trường, người lính dù phải có trách nhiệm tìm được chiếc xe của mình. Khi thả từ máy bay xuống thì những chiếc can CLE chứa Welbike do nhẹ hơn trọng lượng của người lính và không thể tự điều khiển điểm rơi nên chúng dễ bị phân tán. Thế nên người lính sau khi đáp xuống phải tìm cách ẩn nấp, tìm chiếc xe của mình để tránh việc chiếc xe rơi vào tay địch. Khi tìm được xe, người lính còn phải mở can lấy xe ra và mất thêm gần chục giây để triển khai trước khi có thể sử dụng.
Thêm vào đó, người lính cũng tự đặt mình vào nguy hiểm khi phải mất thời gian mở thùng, lấy xe ra, mở ghi đông và yên để sử dụng. Ưu điểm nhỏ gọn của chiếc xe lại là nhược điểm đối với người sử dụng bởi tư thế lái không thoải mái, nhất là với những ai cao lớn.
Welbike về sau được sử dụng chủ yếu như một phương tiện vận chuyển tại các sân bay ở Far East bởi chiếc xe phù hợp để chạy trên đường phẳng hơn là địa hình, nhỏ dễ cất và cự ly hoạt động không lớn không phải là vấn đề khi sử dụng tại sân bay. Đến khi ngưng sản xuất vào năm 1945 thì Welbike có tổng cộng 3 biến thể gồm Mark 1 tương tự như nguyên mẫu đầu tiên với động cơ của Excelsior, Mark 2 Series 1 có thêm chắn bùn và Mark 2 Series 2 có bình xăng dạng yên ngựa, loại bỏ nhu cầu sử dụng bơm điều áp trên các phiên bản đầu tiên.
Cùng thời gian Welbike được phát triển thì những chiếc tàu lượn cỡ lớn cũng ra đời để có thể chở được những chiếc xe máy lớn hơn và động cơ mạnh mẽ hơn. Quân đội Anh về sau sử dụng dòng xe WD/RE 125 cc của Royal Einfield với trọng lượng ướt chỉ 59 kg, có thể thả bằng dù hay bằng tàu lượn. Chiếc xe này có biệt danh là Bọ Chét Bay.
Đến thập niên 60, Honda đã hồi sinh ý tưởng ban đầu của Welbike và thế là dòng xe Monkey Bike hay Honda Z series nổi tiếng ra đời.
Tham khảo: Dday-overlord; ww2db; revivaler; wikipedia