Cụ thể, tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu đường bộ QCVN 41:2016 nêu rõ: Xe môtô là xe cơ giới hai hoặc ba bánh và các loại xe tương tự, di chuyển bằng động cơ có dung tích xi-lanh từ 50cm3 trở lên, tải trọng bản thân xe không quá 400kg đối với xe máy 2 bánh hoặc từ 350kg – 500 kg đối với xe máy 3 bánh.
Trong khi đó, xe gắn máy là phương tiện chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh và vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50km/h. Nếu dẫn động là động cơ nhiệt, dung tích làm việc hoặc dung tích tương đương không được lớn hơn 50cm3.
Như vậy, theo định nghĩa trên, xe gắn máy là những xe có dung tích xi-lanh dưới 50 phân khối ( bao gồm xe máy điện) sẽ chạy không quá 40km/h. Còn xe 2 bánh sử dụng động cơ dung tích xylanh từ 50cm3 trở lên là môtô, được chạy tốc độ tối đa 50-70km/h tùy theo loại đường.
“Thông tư 31/2019 quy định, trong khu vực đông dân cư (trừ đường cao tốc), đối với đường đôi, đường một chiều có từ hai làn xe cơ giới trở lên, các phương tiện được chạy với tốc độ tối đa 60km/h. Với đường hai chiều và đường một chiều có một làn xe cơ giới, các phương tiện được chạy tối đa 50km/h. Ngoài khu vực đông dân cư (trừ đường cao tốc), đối với đường đôi, đường một chiều có từ hai làn xe cơ giới trở lên, xe ôtô con, xe chở người đến 30 chỗ (trừ xe buýt), ôtô tải có tải trọng nhỏ hơn hoặc bằng 3,5 tấn được chạy với tốc độ tối đa 90km/h; nếu là đường hai chiều và đường một chiều có một làn xe cơ giới được chạy tối đa 80km/h. Xe ôtô chở người trên 30 chỗ (trừ xe buýt), ôtô tải có trọng tải trên 3,5 tấn (trừ xe xitéc) tối đa lần lượt là 80km/h và 70km/h; xe buýt, ôtô đầu kéo sơ-mi rơ-moóc, xe môtô, ôtô chuyên dùng (trừ ôtô trộn vữa, trộn bêtông) tối đa lần lượt là 70km/h và 60km/h. Ôtô kéo rơ-moóc, ôtô kéo xe khác, ôtô trộn vữa, trộn bêtông, ôtô xitéc tối đa lần lượt là 60km/h và 50km/h. Tốc độ tối đa cho phép của các loại xe cơ giới, xe máy chuyên dùng trên đường cao tốc không vượt quá 120km/h.” |